'Kinh tế số có thể giúp Việt Nam vào nhóm có quy mô nền kinh tế lớn'
“Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn đau đáu một điều là làm thế nào để nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, giúp người dân hạnh phúc hơn, tham gia các hoạt động xã hội toàn diện hơn, thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội thuận lợi hơn …”, GS. TS Võ Xuân Vinh nói.
Thời gian vừa qua, kinh tế số (KTS) đang được nhắc nhiều trên các Hội nghị, diễn đàn, các phương tiện truyền thông... Kinh tế số không chỉ thúc đẩy đổi mới sáng tạo mà còn làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh và mở ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng toàn cầu... Đồng thời, nó cũng đặt ra những thách thức mới về bảo mật, quyền riêng tư và sự điều tiết trong môi trường số...
GS. TS Võ Xuân Vinh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh doanh (ĐH Kinh tế TP HCM) - một nhà khoa học có tầm ảnh hưởng thế giới đang thực hiện đề tài nghiên cứu về kinh tế số trao đổi liên quan đến lĩnh vực này tại Việt Nam.
|
GS - TS Võ Xuân Vinh phát biểu tại Hội thảo ICBF 2024 . Ảnh: Hoàng Thịnh
|
Người dân phải thực sự được hưởng lợi từ kinh tế số
Những năm qua, Giáo sư (GS) đã có nhiều công trình nghiên cứu giá trị về phát triển kinh tế bền vững, về nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo… Hiện nay, GS tiếp tục nghiên cứu đề tài về kinh tế số, một trong những định hướng phát triển kinh tế của nước ta. Giáo sư có thể cho biết thêm về đề tài nghiên cứu này?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Tôi cho rằng, cuộc cách mạng lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội giúp các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có thể bắt kịp và vượt lên, duy trì tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Bối cảnh hiện nay là thời cơ mà Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt, hành động mạnh mẽ để phát triển kinh tế số, phát triển thêm các ngành nghề kinh doanh mới, mở ra các thị trường mới và tạo thêm nhiều nhu cầu việc làm mới, từ đó bứt phá vươn lên thay đổi thứ hạng quốc gia. Nhiệm vụ phát triển kinh tế số cần được đặt ở mức ưu tiên cao nhất trong các chiến lược phát triển Quốc gia.
Trên cơ sở đó, Đề tài nghiên cứu “Phát triển kinh tế số: Định hướng và giải pháp chính sách” đang được chúng tôi tiến hành. Và chúng tôi hy vọng, Đề tài sẽ góp phần bổ sung về mặt lý luận chính trị để chuẩn bị cho văn kiện đại hội Đảng; đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm giúp người dân giàu có hơn, góp phần đưa Việt Nam đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt mức thu nhập cao vào năm 2045, đồng thời giúp Việt Nam vào nhóm có quy mô nền kinh tế lớn (cận với nhóm G20)
Theo Giáo sư, những định hướng mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế số Việt Nam trong thời gian tới sẽ thế nào?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Theo tôi, khi phát triển kinh tế số cần có những định hướng, mục tiêu rõ ràng. Tôi cho rằng, định hướng mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế số Việt Nam tới năm 2030 phải xác định kinh tế số là trụ cột cho xây dựng xã hội số và chính phủ số, hiện đại hóa, thông minh hóa ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông nghiệp và mọi mặt đời sống xã hội; có sức mạnh, vị thế và tầm ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới. Môi trường phát triển kinh tế số thuận lợi và thị trường số Việt Nam phát triển mạnh mẽ, trở thành nôi nuôi dưỡng doanh nghiệp Việt và là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư kinh tế số quốc tế. Kinh tế số trở thành một trụ cột quan trọng để nâng cao đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Hạ tầng số được ưu tiên đầu tư, tạo ra bước nhảy vọt mới, trở thành “huyết mạch” phục vụ phát triển kinh tế số các vùng sâu, vùng xa.
Đặc biệt, chúng ta cần hướng đến mục tiêu đẩy mạnh yếu tố con người Việt Nam sáng tạo, có tinh thần khởi nghiệp, có kỹ năng số và khát vọng phát triển đất nước phồn thịnh. Người dân, doanh nghiệp có thể sử dụng dịch vụ số theo nhu cầu cá thể hóa, theo suốt cuộc đời, khi cần, theo cách thuận tiện, trực tuyến hoặc trực tiếp, dễ dàng, đơn giản, nhanh chóng, không giấy tờ, không cần sự hiện diện nếu pháp luật không yêu cầu. Mọi người dân được đảm bảo quyền riêng tư trong môi trường số và đều có quyền bình đẳng trong truy cập thông tin, giao tiếp trong môi trường số, kỹ năng số cơ bản, mua bán hàng hóa, chuẩn mực đạo đức, quyền và trách nhiệm, định danh và xác thực dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư trong môi trường số.
Tôi hy vọng, đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng doanh thu hàng năm của kinh tế số gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Tỷ trọng kinh tế số đạt 30% GDP. Tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 3%; Đạt 1,5 triệu nhân lực công nghệ số chuyên nghiệp...
|
Hội thảo thường niên về những vấn đề nổi bật của kinh tế châu Á tại Nhật Bản tháng 9/2024
|
Giáo sư có thể cho biết những lợi ích cụ thể mà các doanh nghiệp, người dân có thể đạt được từ nền kinh tế số?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Nói đơn giản thể thế này, nếu kinh tế số phát triển, nó có thể giúp thay đổi cấu trúc của nền kinh tế. Từ đó, kinh tế số giúp cho doanh nghiệp quản trị tốt hơn, tiếp cận với khách hàng dễ dàng hơn từ nhiều nguồn, cụ thể như thông qua sàn thương mại điện tử... Doanh nghiệp có thể tìm kiếm được lực lượng lao động với chi phí thấp hơn ở mọi nơi. Người lao động cũng có thể thông qua mạng internet, các công cụ số để làm việc ở nhà, giải quyết công việc nhanh chóng trong thời gian ngắn và làm được nhiều việc cùng lúc. Thậm chí, nếu người lao động chỉ có 1 giờ rảnh rỗi, họ cũng có thể tham gia vào một thị trường lao động nào đó và không phụ thuộc họ đang ở đâu. Ở trong nước cũng có thể làm việc xuyên biên giới…
Ngoài ra, phát triển kinh tế số cũng giúp cho mỗi người dân đều có thể tham gia vào nền kinh tế với vai trò không những là người sản xuất đơn thuần mà họ còn có thể trở thành những nhà kinh doanh, doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua nền tảng video. Ví dụ trước đây, bà con trồng, bán trái cây ở chợ cho số ít người thì nay có thể tự mình dựa vào nền tảng số để bán hàng online, đưa lên youtube, facebook, tiktok, livestream bán trực tiếp với chi phí cực thấp mà hiệu quả lại cao, tiếp cận số lượng khách hàng lớn trong thời gian rất ngắn...
Giáo sư có thể nêu ra các thách thức, rủi ro trong nền kinh tế số?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Chúng ta đang phát triển mạnh mẽ kinh tế số nhưng cạnh đó vẫn còn nhiều thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cái thứ nhất là hạ tầng cơ sở, Việt Nam tuy có mạng lưới di động phủ sóng rộng khắp với qui mô tương đối lớn, tuy nhiên có 2/3 dân số sống ở nông thôn, đường giao thông, mạng lưới internet… chưa thể bao phủ hết. Phát triển dịch vụ logistic cũng là bài toán lớn.
Thứ nữa là công tác quản trị thông tin, hay nói cách khác là bài toán bảo mật khi mà tất cả mọi thứ đều đưa lên nền tảng số. Trong quá trình triển khai thì đang còn hiện tượng là trăm hoa đua nở, mỗi nơi một kiểu, có nhiều platform lựa chọn nên việc bảo mật thông tin đang có vấn đề. Chúng ta đi đâu, làm gì thì gần như đều có hết thông tin trên mạng. Chưa kể có những thông tin chúng ta dễ dàng bị hack. Có những nền tảng chúng ta khó kiểm soát vì server ở nước ngoài… Đây cũng là vấn đề mà chúng ta phải quan ngại trong quá trình phát triển và là bài toán mà nhà quản lý phải chuẩn bị, phải lựa chọn cách thức xử lý phù hợp. Bởi nếu không kiểm soát tốt thì không chỉ doanh nghiệp, cá nhân mà cả các cơ quan Chính phủ đều đối mặt rủi ro về an ninh mạng.
Tiếp nữa là hệ thống pháp luật, quan điểm về chính sách chắc là đang cần phải thay đổi để cập nhật những vấn đề liên quan đến kinh tế số, chẳng hạn như là xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật nhằm điều chỉnh công tác quản lý vận hành các loại hình kinh doanh mới xuất hiện trên nền tảng số, về chính sách thuế khi kinh doanh trên mạng xã hội có tính chất toàn cầu, quản lý sự tham gia của người dùng, sự tuân thủ pháp luật…
|
GS. TS Võ Xuân Vinh chủ trì phiên tổng thể hội nghị triển vọng kinh tế toàn cầu
|
Một số giải pháp nền móng phát triển kinh tế số Việt Nam
Theo giáo sư, những bước quan trọng nào, giải pháp nào cần thực hiện để thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế số?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Đầu tiên là các giải pháp tạo nền móng cho kinh tế số. Điều tiên quyết nhất là phải tiếp tục hoàn thiện thể chế. Cụ thể là: Xây dựng, ban hành và triển khai mạnh mẽ các chiến lược tạo nền móng phát triển cho kinh tế số giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 gồm: Chiến lược Hạ tầng số đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 nhằm tạo hạ tầng cho kinh tế số phát triển; Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 nhằm tạo tạo tài nguyên dữ liệu số cho phát triển kinh tế số; Chiến lược phát triển Chính phủ số đến năm 2030, định hướng đến 2045 nhằm dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế số; Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 nhằm tạo lực lượng doanh nghiệp nòng cốt dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế số; Chiến lược an toàn không gian mạng quốc gia giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nhằm tạo niềm tin số và đảm bảo sự an toàn, bền vững trong phát triển kinh tế số và sự thịnh vượng của quốc gia.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường pháp lý, coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt, có mức độ ưu tiên cao nhất, được lồng ghép trong tất các các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế số. Điểm đột phá là ban hành chính sách, quy định thúc đẩy các hoạt động trực tuyến diễn ra nhiều hơn, rẻ hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn và an toàn hơn. Rà soát, chỉnh sửa, bổ sung các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm môi trường pháp lý thuận lợi cho kinh tế số, cho phép thử nghiệm, chấp nhận cái mới và chấp nhận thay đổi. Trong đó, đặc biệt là làm thế nào để hài hòa việc tận dụng được những nền tảng sẵn có, nền tảng chúng ta không thể cạnh tranh hoặc bắt buộc phải cạnh tranh, để vừa sử dụng được với chi phí thấp mà quản trị được rủi ro.
Cạnh đó là phát triển mạnh mẽ hạ tầng số, nền tảng số quốc gia. Hạ tầng số Việt Nam cần hiện đại, ngang tầm thế giới, hỗ trợ tốt nhất cho kinh tế số phát triển như băng thông rộng, tốc độ cao; công nghệ mạng thế hệ mới như 5G, IP v6; mọi người dân trên 16 tuổi đều sẵn sàng phương tiện số và điện thoại thông minh; mỗi người dân đều sẵn sàng 1 danh tính số và 1 tài khoản thanh toán điện tử.
Đẩy mạnh phát triển dữ liệu chủ trong các cơ sở dữ liệu quốc gia có độ chính xác cao làm dữ liệu gốc và dữ liệu mở đặc thù của Việt Nam để phân tích, xử lý, dán nhãn phục vụ phát triển trí tuệ nhân tạo. Tăng cường kết nối, chia sẻ và sử dụng dữ liệu để thúc đẩy hiệu quả, cải thiện các dịch vụ công, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện sự phục vụ của cơ quan nhà nước cho người dân, doanh nghiệp, cộng đồng và toàn xã hội. Gắn kết việc phát triển dữ liệu số với mục tiêu, nhiệm vụ, nâng cao năng lực quản trị nhà nước, mang lại tiềm năng bứt phá cho kinh tế số, phục vụ người dân tốt hơn, phản ánh giá trị văn hóa, lịch sử và trí tuệ toàn dân trong đời sống kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh số hóa dữ liệu trong các lĩnh vực trọng điểm nhằm tạo nền tảng để phát triển kinh tế số ngành. Tập trung phát triển dữ liệu và phát triển nhân lực dữ liệu trong các lĩnh vực trọng điểm.
|
GS. TS Võ Xuân Vinh trao đổi với một số nhà khoa học bên lề hội thảo về những vấn đề nổi bật của kinh tế châu Á tại Tokyo
|
Đảm bảo an toàn thông tin mạng và an ninh mạng. Tạo dựng không gian mạng Việt Nam an toàn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia an toàn an ninh mạng xuất sắc và nguồn nhân lực an toàn mạng chất lượng cao, dồi dào để Việt Nam có thể tự chủ, không bị phụ thuộc về công nghệ, giảm thiểu nguy cơ thường trực về an toàn, an ninh mạng. Phát triển năng lực quản lý các nền tảng số, xây dựng môi trường số an toàn, lành mạnh.
Sự khác biệt giữa nền kinh tế số Việt Nam với các nước trên thế giới là gì, thưa Giáo sư? Để tiếp cận nền kinh tế số một cách hiệu quả, người dân cũng như doanh nghiệp cần phải chuẩn bị gì?
- GS. TS Võ Xuân Vinh: Một số điểm mà đề tài này khác với các nước khác trong phát triển kinh tế số đó là, đang bám sát vào bối cảnh phát triển của Việt Nam. Mục tiêu của sự phát triển là không ai bị bỏ lại phía sau, lực lượng lao động ở nông thôn cũng được tham gia và thụ hưởng. Tiếp theo là làm thế nào để hài hòa được những nền tảng sẵn có để không phải cạnh tranh với những nền tảng toàn cầu, hài hòa theo cách chi phí thấp, quản trị được rủi ro. Ngoài ra, định hướng phát triển kinh tế số cũng dựa trên nền tảng lực lượng lao động của Việt Nam nữa, tức là lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực viễn thông CNTT được coi là lực lượng tinh nhuệ. Tuy nhiên, đối với Việt Nam mặt bằng, tỷ lệ lao động thấp, đặc biệt trong bối cảnh mà phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm chi phí lao động thấp, thì đề tài này khi đặt ra, nhóm nghiên cứu đã hình dung không chỉ phục vụ các đối tượng mà họ đang tham gia. Thì giống như tôi đã từng nói, coi phát triển kinh tế số có giúp cho Việt Nam vượt qua cái bẫy thu nhập trung bình và giúp người lao động đó vượt lên được khỏi cái thu nhập trung bình mà họ đang có; phát triển KTS có giúp cho họ có nhiều cơ hội hay không, có giúp họ có được thu nhập cao hơn hay không, thì đòi hỏi họ phải có tư duy toàn cầu, tức các người lao động này không chỉ làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài với giá rẻ mà họ còn có thể tìm kiếm và làm việc với các doanh nghiệp toàn cầu, tăng sự lựa chọn, tăng điều kiện cho họ, tăng cơ hội cho họ. Đấy cũng là sự khác biệt mà đề tài đang hướng tới. Có như vậy mới có ý nghĩa chứ phát triển kinh tế số nhưng người lao động vẫn phải làm ở các khu công nghệ cao với chi phí thấp thì cũng không phải là tốt.
Về công tác chuẩn bị, đối với các doanh nghiệp thì hiện nay, việc lựa chọn các nền tảng sẽ giúp cho các doanh nghiệp quản trị được yếu tố đầu vào tốt hơn, đưa sản phẩm ra thị trường với chi phí thấp hơn. Muốn vậy thì các doanh nghiệp cần phải được hỗ trợ và tư vấn. Đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì họ lại cần phải có các dự án, sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc lựa chọn sử dụng ứng dụng platform. Các doanh nghiệp lớn có tiền họ chủ động, nhưng doanh nghiệp nhỏ thì đòi hỏi sự hỗ trợ của Chính phủ rất nhiều.
Điểm nữa, những kỳ vọng đối với nền kinh tế số, là muốn kinh tế phát triển thì càng nhiều người tham gia vào thị trường, càng nhiều người trở thành doanh nhân thì càng tốt. Kinh tế số bắt buộc phải khuyến khích cho từng cá nhân có thể tham gia được vào thị trường hay nói cách khác là để mỗi người dân, mỗi gia đình trở thành doanh nghiệp số thì đòi hỏi sự hỗ trợ của Nhà nước rất lớn, từ việc đào tạo họ, hướng dẫn họ, đưa ra các chính sách để khuyến khích họ tham gia vào nền KTS.
|
GS-TS Võ Xuân Vinh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh doanh (Trường Đại học Kinh tế TP HCM)
|
Còn đối với người dân, để hiểu được, để tham gia được vào nền KTS, và để có thể tận dụng tốt hơn thì đòi hỏi phải có kiến thức số và kỹ năng số, việc này rất quan trọng. Hiện nay các trường Đại học cũng đã có các khóa học liên quan, tuy nhiên rất cần các chương trình đào tạo kỹ năng số để mọi người dân đều có thể tham gia được vào nền kinh tế số, từ góc độ họ từ người dân trở thành doanh nghiệp số, hoặc họ là những người lao động trong bối cảnh số, là khách hàng của nền KTS, đòi hỏi sự khuyến khích tham gia vào các chương trình đào tạo được sự hỗ trợ bởi các dự án của Chính phủ để nâng cao kiến thức. Ngoài ra, cần hướng dẫn được cung cấp trên các nền tảng số để mọi người có thể tham gia vào một cách dễ dàng, dễ truy cập với chi phí thấp.
Xin cảm ơn Giáo sư!
Một số giải pháp về phát triển nguồn nhân lực trong nền kinh tế số
Về giải pháp nguồn nhân lực và các dịch vụ hỗ trợ, tôi thống nhất quan điểm cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực số. Tập trung phát triển nhân lực công nghệ số đáp ứng kỹ năng mới liên quan đến điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, kiến trúc hệ thống, kỹ nghệ phần mềm, thiết kế giao diện và trải nghiệm người dùng, an toàn thông tin mạng. Triển khai chuẩn kỹ năng số và khung kỹ năng số quốc gia, trong đó, xác định các kỹ năng cần thiết, trình độ đáp ứng, phù hợp theo từng đối tượng. Khuyến khích doanh nghiệp công nghệ số lớn triển khai đào tạo, tăng cường đào tạo nâng cao kỹ năng số cho người lao động. Tăng cường triển khai Chương trình dạy và học về kỹ năng số và STEM/STEAM trong giáo dục tiểu học và phổ thông. Tăng mạnh chỉ tiêu đào tạo các ngành công nghệ thông tin, công nghệ số, công nghệ 4.0 như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thực tế ảo/thực tế tăng cường, chuỗi khối, in ba chiều.
Bên cạnh đó, phải tăng cường phát triển các doanh nghiệp số. Phát triển các doanh nghiệp công nghệ số gồm: Các tập đoàn, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ lớn trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; Các doanh nghiệp công nghệ thông tin đã khẳng định được thương hiệu; Các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số; Các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo về công nghệ số...
Cuối cùng là hỗ trợ các hộ nông dân, hộ kinh doanh cá thể và hợp tác xã chuyển đổi số, làm kinh tế số. Triển khai sáng kiến “Mỗi nông dân là một thương nhân”, với mục tiêu mỗi người nông dân được định hướng, đào tạo kỹ năng số, đăng ký lên sàn thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, cung cấp, phân phối, dự báo về nông lâm thuỷ sản của mình.